Quế là một loại cây có nhiều phần khác nhau được sử dụng với các tác dụng và cách dùng đa dạng.
Quế được ứng dụng trong việc điều trị và phòng ngừa bệnh đái tháo đường, giảm nguy cơ bệnh tim, kháng viêm mạnh, bảo vệ não khỏi chứng mất trí và suy giảm nhận thức, phòng ung thư, loại bỏ hơi thở hôi, và tốt cho da.
Nhiều bài thuốc bổ thận, chữa bệnh vô sinh - hiếm muộn nam và nữ đều sử dụng quế.
Quế có tên khoa học là Cinnamomum loureirii Nees; thuộc họ long não (Lauraceae). Cây lớn, cao 10 - 20m, vỏ ngoài nứt nẻ, thân phân nhiều nhánh. Cây có thể mọc hoang trong rừng hoặc trồng bằng hạt, hay chiết cành. Sau 5 năm, quế có thể thu hoạch, nhưng vỏ quế bóc sau 20 - 30 năm sẽ tốt nhất.
Việc bóc vỏ quế vào tháng 4 - 5 hoặc 9 - 10 sẽ dễ hơn vì đây là giai đoạn quế làm nhựa.
Quế có mùi thơm, vị cay ngọt, tính nóng, có tính độc nhưng hoàn toàn là dược liệu, có tác dụng trong hai kinh can thận. Chủ yếu sử dụng để cứu khí nguyên dương đã lạnh lâu ngày, giúp ấm cho chứng tỳ vị hư hàn, cứng gân xương, tăng sinh dục, dưỡng tâm thần, nuôi tinh tủy, ấm lưng gối, chữa tê thấp, ho đờm, nhọt trong...
Mỗi phần cây quế có tác dụng làm thuốc khác nhau. Nhục quế có mùi ngọt mà cay, có tác dụng bổ mệnh môn và cứu vãn phần dương trong dược liệu. Nó cũng là thuốc hỗ trợ cho phần vinh vệ khí huyết hậu thiên.
Quế chi có vị cay, tính nóng và nhẹ, có tính độc nhẹ. Nó có tác dụng chữa chứng đau trong bụng, giảm chứng lạnh ngoài bì phu, điều hòa vinh vệ, cơ biểu, trị tê tay chân, giải tán phong hàn. Nếu không ra mồ hôi, nó sẽ kích thích ra mồ hôi. Nếu đã có mồ hôi, nó sẽ giữ mồ hôi lại.
Quế tâm (phần bên trong màu tía, ngọt): có vị ngọt tính âm, là thuốc âm trong dược liệu, có tác dụng bổ tâm huyết. Nó có thể chữa chứng huyết sung lên, đau bụng sau sinh, ngăn chặn chứng thổ ra máu, mửa máu, và điều hòa kinh huyết. Nó cũng trị tình trạng khí huyết không tan sau sinh, tạo thành cục khối ở trên vùng bụng, giảm cảm giác rét, tay chân gầy yếu.
Dưới đây là một số bài thuốc sử dụng quế, trong đó có bài thuốc điều trị cho chứng vô sinh - hiếm muộn nam.
Quế linh hoàn: Nhục quế 3g, Mộc hương 3g, Can khương 5g, Nhục đậu khấu, Chế phụ tử đều 9g; Đinh hương 3g, Phục linh 9g. Chế thành hoàn mỗi lần uống 8g, uống 2 - 3 lần mỗi ngày với nước ấm. Trị đau bụng tiêu chảy do tỳ thận dương hư.
Tế sinh Thận khí hoàn: Can địa hoàng 15g, Sơn dược 12g, Sơn thù 6g, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả đều 12g, Nhục quế 4g, Phụ tử 10g, Xuyên ngưu tất 12g, Xa tiền tử 15g. Luyện mật làm thành hoàn. Uống 15g mỗi lần, uống 2 - 3 lần mỗi ngày. Trị viêm thận mạn, phù thũng do dương khí hư chân tay lạnh, tiểu ít, chân phù.
Thất vị bổ tinh: Thục địa 320g, Hoài sơn 240g, Sơn thù 200g, Đơn bì 120g, Trạch tả 120g, Bạch linh 160g, Nhục quế 40g.
Đây là bài Bát vị hoàn được bỏ vị Phụ tử vì vị này có tính nóng và hơi độc không phù hợp với người bị cao huyết áp và người trẻ tuổi.
Tuy nhiên, bài thuốc vẫn giữ lại vị Nhục quế thay vì loại bỏ như trong bài Lục vị hoàn. Bởi vì Nhục quế có vị cay ngọt, tính nhiệt và quy vào các kinh thận, tỳ, tâm, can.
Nhục quế có tác dụng bổ mệnh môn hỏa, tán hàn, ôn tỳ, chỉ thống, và làm ấm khí huyết.
Bài thuốc Thất vị bổ tinh giúp bổ thận, bồi dưỡng ngũ tạng, sinh tinh, và làm cho tinh khí mạnh mẽ, rất dễ thụ thai.