Xem thêm

Ngày tết vùng cao Bắc Kạn: Cuộc sống và phong tục của đồng bào Tày, Nùng, Mông, Dao

MAI THỊ NHUNG
Ngày tết đặc biệt của dân tộc Tày Dân tộc Tày chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các dân tộc tại tỉnh Bắc Kạn, đạt tới 54% dân số. Vào ngày 27 và 28...

Ngày tết đặc biệt của dân tộc Tày

Dân tộc Tày chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các dân tộc tại tỉnh Bắc Kạn, đạt tới 54% dân số. Vào ngày 27 và 28 âm lịch, các gia đình Tày trên vùng cao Bắc Kạn trở nên sôi động và nhộn nhịp với việc thịt lợn và bánh chưng được chuẩn bị sẵn cho ngày tết. Các công đoạn chế biến thịt lợn được thực hiện cẩn thận để tạo ra những món ăn đặc trưng của người Tày như thịt lam, thịt treo gác bếp, lạp sườn, thịt ướp muối gừng và đặc biệt là bánh chưng dài hình tròn. Chất liệu cho bánh chưng cũng được lựa chọn kỹ lưỡng, từ tàu lá dong xanh mướt cho đến gạo nếp đặc trưng của vùng núi cao Bắc Kạn.

Ngày tết của đồng bào vùng cao Bắc Kạn Ngày tết của đồng bào vùng cao Bắc Kạn

Công việc chuẩn bị tết chủ yếu do các chị em trong gia đình đảm nhận. Bàn thờ là nơi được chuẩn bị kỹ lưỡng nhất, không chỉ dọn dẹp mà còn trải một tờ giấy đỏ với hy vọng mang lại nhiều may mắn và thành công trong năm mới. Các chân bàn thờ được buộc bằng bốn cây mía, tượng trưng cho sự gắn bó của tổ tiên cùng tham gia bữa tết gia đình.

Ngày mùng 1, người Tày có quan niệm không mời khách vào nhà trừ khi được mời, vì vậy họ chỉ mời những người xung quanh là có đạo đức và làm ăn siêng năng. Đối với những gia đình có tang, họ không đi chơi trong ngày mùng 1.

Khoảng ngày mùng 4 và mùng 5, người Tày tổ chức hội lồng tồng (xuống đồng). Trong ngày này, các chàng trai cô gái mặc áo chàm đặc trưng đi chơi hội. Các trò chơi phổ biến trong ngày hội bao gồm hái hoa dân chủ, ném còn, kéo co, thi hát các câu Sli, câu lượn về Bác Hồ, về mùa xuân và ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước.

Ngày tết của dân tộc Nùng

Người Nùng sống xen kẽ với người Tày, chiếm 9% dân số của tỉnh Bắc Kạn. Vì sống chung với người Tày nên tập quán ngày tết của người Nùng khá gần gũi. Tuy nhiên, phong tục ăn tết của người Nùng vẫn có những nét đặc trưng riêng.

Một món ăn không thể thiếu trong bữa cơm tất niên của người Nùng là thịt vịt. Những con vịt được nuôi béo từ vài tháng trước đó chỉ chờ đến ngày tất niên mới được thịt. Người Nùng tin rằng, việc ăn vịt trong bữa tất niên sẽ làm trôi đi những điều không tốt trong năm cũ và phải ăn hết trong bữa tất niên, không để thừa qua năm mới.

Bánh khảo khẩu thuy của người Nùng Bánh trời khẩu phạ của người Nùng Bánh khảo khẩu thuy của người Nùng Bánh trời khẩu phạ của người Nùng

Trong mâm cỗ cúng tổ tiên đêm 30 và trong bữa cơm tết, gà trống thiến là một món không thể thiếu. Con gà được nuôi béo từ đầu năm chỉ ăn thóc và ngô. Ngày mùng 1, con rể phải đi biếu bố mẹ vợ một con gà trống thiến.

Vào thời khắc giao thừa, người Nùng dán giấy đỏ lên các vật dụng như cuốc, cày, chuồng gà, chuồng lợn, chuồng trâu... Theo quan niệm của người Nùng, việc này giúp tôn vinh các vật dụng đã giúp họ thu hoạch được nhiều lúa, nên trong ngày này, họ dán giấy đỏ để cảm ơn và mời các vật dụng cùng ăn mừng tết.

Ngoài ra, khẩu thuy, bánh khảo, bánh trời và bỏng là những món ăn không thể thiếu khi mời khách trong ngày tết.

Ngày tết của dân tộc Mông và Dao

Người Mông và Dao có nên phong tục tập quán ngày tết gần gũi nhau. Từ ngày 26 và 25 tháng chạp âm lịch, họ bắt đầu nghỉ ngơi và chuẩn bị đón xuân. Trong thời gian này, họ niêm phong tất cả các công cụ sản xuất, như cái cày, cái cuốc được cất trong kho.

Trong ngày tết, những món ăn không thể thiếu đối với người Mông và Dao là thịt, rượu và bánh dày. Thịt lợn phải là những con to và ngon nhất trong đàn. Rượu phải làm từ ngô nguyên hạt. Bánh dày được làm từ gạo nếp do chính tay họ làm ra.

Anh Lò A Chẳn, một người Mông tại huyện Ba Bể, cho biết rượu ngô của người Ba Bể, đặc biệt là ở vùng Khưa Quang, đã trở thành đặc sản không thể thiếu với mỗi người dân địa phương. Rượu này làm từ ngô nguyên hạt, không sử dụng men tạo mà ủ bằng men lá trong khoảng 3 đến 4 tháng. Rượu có màu vàng óng và hương vị đặc trưng. Ai đã từng uống một lần sẽ không thể quên. Rượu này được gọi là rượu vị Khưa Quang.

Vào ngày tết, người Mông và Dao thường mặc những bộ áo truyền thống đẹp nhất để đi chơi và tham gia các hoạt động như ném còn, múa khèn, múa ô và chơi cầu lông gà.

Ngày tết của người Kinh

Người Kinh chiếm 14% dân số tỉnh Bắc Kạn, chủ yếu tập trung tại thị xã Bắc Kạn. Tết của người Kinh tại Bắc Kạn bắt đầu từ ngày 23 tháng chạp. Ngày này được coi là ngày tết ông Công, ông Táo, do đó có những hoạt động tết sôi động. Mỗi gia đình chuẩn bị mâm cỗ đậm đà với xôi, thịt gà, thịt lợn, nem, canh măng và canh miến tết ông Công, ông Táo. Trong ngày này, cá chép cũng là một thứ không thể thiếu để tiễn ông Táo về trời. Người Kinh tin rằng, sau một năm làm việc, đây là thời điểm ông Táo báo công với trời đất về thành quả đã đạt được. Họ hy vọng rằng năm mới sẽ đem lại nhiều kết quả tốt đẹp.

Vào thời khắc giao thừa, người Kinh lại khác biệt so với các dân tộc khác. Thay vì ở trong nhà, họ ra đường để đón xuân và hái lộc. Trong những ngày đầu năm, người Kinh thường đi lễ chùa để cầu phúc và cầu may. Đi lễ chùa đầu năm mang ý nghĩa cầu mong cho một năm an lành. Theo quan niệm của đạo Phật, việc này hướng đến "vạn sự hanh thông". Khi đến chùa, người ta không chỉ cầu phúc cho gia đình mà còn với tất cả mọi người, với các ước nguyện khác nhau. Người kinh doanh mong công việc làm ăn phát đạt, người nông dân mong mùa màng bội thu, các chàng trai cô gái cầu mong tình duyên... Đây chính là những nét đặc trưng riêng trong tập quán ăn tết của người Kinh tại Bắc Kạn và trên cả nước.

Tết là khoảng thời gian chuyển giao giữa năm cũ và năm mới. Tết ở vùng cao Bắc Kạn không chỉ là sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên mà còn là dịp để mọi người tri ân tổ tiên, nghỉ ngơi sau một năm lao động vất vả. Đó là thời điểm mong đợi của từng dân tộc và mỗi người dân trên đất nước Việt Nam.

1