Xem thêm

Vùng đất Buôn Đôn và những câu chuyện kì bí về săn bắt voi

MAI THỊ NHUNG
Hình ảnh: Buôn Đôn - một vùng đất nổi tiếng về săn bắt và nuôi dưỡng voi rừng. Buôn Đôn từ lâu đã được biết đến là một vùng đất nổi tiếng về nghề săn...

A2 Hình ảnh: Buôn Đôn - một vùng đất nổi tiếng về săn bắt và nuôi dưỡng voi rừng.

Buôn Đôn từ lâu đã được biết đến là một vùng đất nổi tiếng về nghề săn bắt và nuôi dưỡng voi rừng. Tuy nhiên, những câu chuyện huyền thoại và kì bí giữa rừng sâu dần trở thành những kí ức duy nhất của những thợ săn voi. Hãy cùng tôi khám phá những hồi ức này.

Gặp thợ săn voi khét tiếng Buôn Đôn một thời

Là người bản địa, tôi đã dẫn dắt nhiều đoàn khách, bạn bè đến thăm vùng đất voi Buôn Đôn. Một khi đã đặt chân đến Buôn Đôn, du khách sẽ được trải qua những trải nghiệm đáng nhớ như đi qua những cây cầu treo, cưỡi trên lưng voi để vượt qua dòng sông Sêrêpốk. Nhưng hơn hết, du khách sẽ được lắng nghe những câu chuyện kì bí về nghề săn bắt voi của người M'nông trên dãy núi Tây Nguyên.

Tuy nhiên, hiện tại, số lượng các gru (thợ săn voi) chỉ còn rất ít. Chúng tôi đã may mắn gặp được ông Y Thốt Knul, một gru khét tiếng một thời của Buôn Đôn. Ông Y Thốt Knul, đã 71 tuổi, sống tại Buôn Đôn, xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk. Dù đã quá 70 tuổi, ông vẫn khỏe mạnh với thân hình săn chắc và mái tóc bạc trắng như cước.

Ông Y Thốt Knul chia sẻ: "Ngày xưa, Buôn Đôn voi rừng rất nhiều. Người M'nông chủ yếu sinh sống bằng nghề săn bắt và nuôi dưỡng voi để lấy sức kéo. Riêng tôi, đã săn được hơn 20 con voi rừng, nhưng từ sau giải phóng (1975), nghề săn voi bị cấm nên từ đó không ai làm nữa".

Ông dẫn chúng tôi xuống gian nhà dưới bếp và tiếp tục khoe: "Đây là tất cả những "đồ nghề" mà tôi còn giữ lại làm kỷ niệm. Mỗi lần nhớ rừng và chuyến đi, tôi lấy ra xem. Để có những đồ nghề này, người thợ săn phải mất vài tháng. Họ phải giết vài con trâu to khỏe, lấy da phơi khô. Sau đó, cắt thành các sợi nhỏ và xe lại thành dây thừng bằng ngón chân cái. Tiếp đó, người thợ săn phải vào rừng sâu, chọn những cây gỗ quý để đẽo thành gọng làm khóa chân voi. Mỗi cuộc hành trình thường kéo dài ít nhất 15 ngày, và đội săn voi gồm 4-5 người mang theo những con voi to khỏe, đủ hai ngà để chống lại những con voi rừng hung giữ bên ngoài".

Ông Y Thốt Knul cũng chia sẻ thêm: "Trước khi xuất quân, ngoài thức ăn và muối, những người thợ săn phải nhờ người già làng thực hiện nghi lễ cúng Giàng, cầu mong một chuyến đi may mắn. Nghi lễ này bao gồm chế rượu cần và một con gà... Nếu trong ngày xuất quân, trong buôn có người chết hay có người sinh đẻ thì chuyến đi đành phải hủy bỏ".

Nghề săn voi chỉ còn trong kí ức

Theo ông Y Thốt Knul, để vào vùng đất voi rừng, phải mất hai ngày đi bộ qua những cánh rừng Pleiku (Gia Lai ngày nay) và rừng Ea H'leo, huyện Ea H'leo, tỉnh Đắk Lắk. Đây thường là nơi mà đàn voi rừng mẹ dẫn theo voi con tới tìm thức ăn và nước uống. Sau khi quan sát đàn voi, người thợ săn chọn những con voi con khoảng 1-2 năm tuổi để săn bắt.

"Chúng tôi phải chọn những con voi con nhỏ tuổi, cao khoảng 2m trở xuống. Loại voi này thường dễ dạy và nuôi dưỡng hơn, bởi voi lớn hơn thì rất khó thuần dưỡng và chúng sẽ gây rối. Sau khi xác định con voi cần bắt, người thợ săn sẽ gài bẫy và sử dụng voi nhà để đuổi con về phía bẫy. Khi con voi con bị mắc bẫy, người thợ săn tiến đến thực hiện các thủ tục khóa chân và khóa vòi để đưa về. Nếu đoàn voi rừng có quá nhiều con hung giữ, người thợ săn buộc phải thả lại con về rừng. Và khi bắt được con voi rừng về, người thợ săn sẽ nhờ người già làng tiến hành lễ "tiếp nhận" theo nghi thức. Người già làng sẽ đọc thần chú theo tiếng M'nông, xin phép Giàng được mang con thú hoang từ rừng về sống chung với buôn", ông Y Thốt Knul chia sẻ trong niềm vui sướng.

Con voi săn về sẽ được xiềng chân, xiềng cổ và bị voi nhà kéo về buôn. Liên tục, con voi này sẽ được cúng xin phép Giàng. Mỗi tuần, người này phải tiến hành lễ cúng Giàng một lần, gồm một nắm xôi nếp, một chén rượu cần và một con gà. Chỉ khi con voi đã được thuần hóa, lễ cúng mới kết thúc. Sau khi săn được voi, một hoặc hai năm sau, đội săn sẽ tiếp tục hành trình săn mới. Lúc này, các thợ săn sẽ tập trung vào việc đào tạo và huấn luyện con voi, như nằm xuống, đứng lên, và hiểu tiếng người. Quá trình huấn luyện kéo dài khoảng ba tháng với con voi hiền và một năm với con voi hung. Theo ông Y Thốt Knul, để săn được voi, người thợ săn không tránh khỏi những nguy hiểm trong rừng. Nhiều thợ săn bị thú dữ tấn công, và có người thì thậm chí mất mạng trong rừng sâu.

Trăn trở về nghề săn voi

Kết thúc câu chuyện, ông Y Thốt Knul nhìn những đôi mắt đỏ hoe và nói: "Voi Buôn Đôn sắp theo Giàng cả rồi. Voi ở buôn này không còn đủ khả năng sinh sản. Mỗi năm, lại có một hoặc hai con voi chết. Nghề săn voi chỉ còn tồn tại trong ký ức của chúng tôi. Với thế hệ tương lai, con cháu chúng ta sẽ không còn biết đến voi là gì..."

Trước đây, nghề săn bắt và nuôi dưỡng voi rừng là nghề truyền thống của một số dân tộc ở Buôn Đôn. Tuy nhiên, sau năm 1975, khi có quyết định cấm săn bắt động vật hoang dã, trong đó có voi, người dân ở Buôn Đôn mới dừng việc săn bắt voi. Tuy nhiên, ở một số buôn của dân tộc thiểu số, nghề săn voi vẫn còn tồn tại. Phải mất thời gian và công sức vận động, áp dụng các biện pháp quản lý, đến năm 1986, nghề săn voi mới chính thức được xóa bỏ. Nhưng nghề săn bắt voi của người dân Buôn Đôn chỉ còn lại trong ký ức.

Theo ông Huỳnh Trung Luân, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn voi Đắk Lắk, trong hơn 30 năm qua, đàn voi rừng liên tục giảm sút từ 502 cá thể vào năm 1980 xuống chỉ còn 46 cá thể hiện tại. Từ năm 2007 đến nay, đã có 21 con voi rừng bị chết do bị giết hại, thiếu thức ăn, kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng kém... Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2015, đã có 3 con voi rừng ở huyện Buôn Đôn và Krông Ana chết bất thường. Mặc dù các cơ quan chức năng xác định nguyên nhân là do tuổi già và một số bệnh thông thường, nhưng nhiều người cho rằng một trong những nguyên nhân khiến voi chết là do bị khai thác quá sức (như phục vụ du lịch và sản xuất) và không được chăm sóc tốt.

Xem thêm video: [link video]

1