Xem thêm

Miền Nam Việt Nam: Vùng đất phía Nam đầy sắc màu

MAI THỊ NHUNG
Miền Nam Việt Nam là một khái niệm mang ý nghĩa địa lý để chỉ vùng phía Nam nước ta. Tuy nhiên, khái niệm này còn được sử dụng theo nghĩa chính trị trong các...

Miền Nam Việt Nam là một khái niệm mang ý nghĩa địa lý để chỉ vùng phía Nam nước ta. Tuy nhiên, khái niệm này còn được sử dụng theo nghĩa chính trị trong các thời kỳ lịch sử khác nhau.

Khái niệm

Theo Sắc lệnh số 153-A/TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 22/09/1955, Miền Nam Việt Nam được chia thành ba phần: Bắc Phần, Trung Phần và Nam Phần. Khái niệm này được sử dụng để chỉ:

  • Phân định địa lý, đồng nghĩa với Nam Bộ.
  • Phân định địa chính trị, đặc trưng cho lãnh thổ ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình), còn được gọi là Đàng Trong.
  • Phân định hành chính, đồng nghĩa với Nam Kỳ của nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc.
  • Phân định theo hiệp định Geneve, là vùng tập kết quân sự tạm thời phía nam giới tuyến quân sự tạm thời của Quân đội Liên hiệp Pháp.

Từ năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân giải phóng miền Nam ra đời, đánh dấu sự hình thành một chính quyền và lực lượng giải phóng đối lập với chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ngày 06/06/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập để hỗ trợ việc giải phóng miền Nam. Cuối cùng, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thống nhất trở thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua tổng tuyển cử.

Các tiểu vùng địa lý

Miền Nam Việt Nam bao gồm 17 tỉnh và hai thành phố lớn: Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ. Khu vực này được chia làm hai vùng chính:

  • Vùng Đông Nam Bộ hay miền Đông, bao gồm 5 tỉnh và thành phố Hồ Chí Minh.
  • Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, còn được gọi là Tây Nam Bộ hay miền Tây, gồm 12 tỉnh và thành phố Cần Thơ.

Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam lại xếp 2 tỉnh ninh thuận và Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ.

Các tên gọi khác

Miền Nam Việt Nam còn được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau, phản ánh những giai đoạn lịch sử và quyền kiểm soát:

  • Đàng Trong: Tên này xuất hiện từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17. Tuy hai vùng lãnh thổ này thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng trong danh nghĩa vẫn thuộc Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được sử dụng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn.
  • Nam Hà: Tên gọi này có nghĩa đơn giản là "ở phía nam con sông", hàm ý đến con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít được sử dụng phổ biến như Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.
  • Gia Định: Từ ban đầu chỉ là tên gọi cho một vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam, sau mở rộng rồi được dùng để chỉ toàn bộ vùng miền Nam Bộ ngày nay. Gia Định Thành, trụ sở của chính quyền miền Nam từng tồn tại và được cai quản bởi triều đình.
  • Nam Kỳ: Tên này xuất hiện từ năm 1832 và được dùng để chỉ vùng lãnh thổ do Gia Định Thành cai quản trước đó. Giai đoạn sau này, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.
  • Nam Phần: Tên gọi này xuất hiện sau giai đoạn giải tán chính phủ Nam Kỳ. Sau khi Thỏa ước thành lập Quốc gia Việt Nam được ký kết, vùng lãnh thổ Nam Bộ chia thành các phần, trong đó Nam Phần tương ứng với Nam Bộ vào năm 1945.

Kết luận

Miền Nam Việt Nam, với sự phát triển và thay đổi theo thời gian, là vùng đất phía Nam đầy sắc màu và đa dạng văn hóa. Từ những cánh đồng lúa mênh mông ở Đồng Tháp Mười cho đến nhịp sống sôi động của Thành phố Hồ Chí Minh, vùng đất này đã và đang là điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước.

Ảnh: Lãnh thổ Đàng Trong và "Hạ Đàng Trong", năm 1867

1